Gia công phần mềm cho Nhật
Nhóm kỹ sư phần mềm tại công ty Logigear.Ảnh: Hoàng Duy |
Theo khảo sát của cơ quan Xúc tiến công nghệ thông tin Nhật (IPA) với 1.100 doanh nghiệp công nghệ thông tin (CNTT) Nhật Bản về hoạt động thuê ngoài (offshore), 31,5% doanh nghiệp cho biết muốn thiết lập đối tác tại Việt Nam, Ấn Độ là 20,6%, và Trung Quốc là 16,7%. Có 23,3% doanh nghiệp đã đặt đơn hàng tại Việt Nam, nhưng đến 78,1% doanh nghiệp đang đặt tại Trung Quốc, 13,5% doanh nghiệp đặt tại Ấn Độ. Tuy nhiên về giá trị hợp đồng thì Việt Nam chỉ bằng 1/30 tổng giá trị đơn hàng Nhật tại Trung Quốc.
Nhật muốn tăng đơn hàng
Số liệu trên được đưa ra tại ngày công nghệ thông tin Nhật Bản tại TP.HCM, do VINASA và câu lạc bộ Doanh nghiệp Việt – Nhật (VJC) tổ chức đầu tuần này. Theo ông Naoki Ookubo, đại diện IPA, 88,5% doanh nghiệp cho biết chọn Việt Nam vì muốn giảm giá thành; tiếp theo là nhằm tìm kiếm nguồn nhân sự bảo đảm thay thế cho lao động Nhật ngày càng già đi; và do lo ngại về mối quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên quan hệ gia công gặp khó khăn lớn về ngôn ngữ và văn hóa, cách thức kinh doanh công nghệ cũng thay đổi nhanh đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ ở thị trường nước ngoài.
Theo ông Hidemi Yamamoto, phó chủ tịch hiệp hội Công nghệ thông tin Nhật (JISA), công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) là ngành công nghiệp quan trọng chiếm đến 10% GDP của Nhật (riêng phần mềm khoảng 4%), bên cạnh việc tìm thị trường có chi phí thấp còn nghiên cứu đáp ứng dịch vụ ở các nước sở tại. “ICT là một trong những lĩnh vực chính trong quan hệ hợp tác hai nước, nhưng để thúc đẩy thị trường, không chỉ về năng lực kỹ thuật mà còn các quy trình trao đổi trong nhiều lĩnh vực”.
Trong khi đó, theo TS Nguyễn Trọng Đường, vụ trưởng vụ CNTT, ngành ICT Việt Nam năm 2011 đạt tổng doanh thu 20 tỉ USD, tăng 17,6% so với năm 2010. Mảng CNTT đạt 13,7 tỉ USD, tăng 79% nhưng chủ yếu từ phần cứng như điện tử – điện thoại vốn có giá trị gia tăng thấp. Mảng phần mềm mang lại giá trị gia tăng cao nhất nhưng chỉ đạt 1,2 tỉ USD với gần 1.500 doanh nghiệp và 80.000 lao động. Chi tiêu phần mềm nội địa đã đạt 2,9 tỉ USD, gấp hai lần năm 2006.
Điều đáng nói là năng suất lao động năm 2011 đạt 18.855 USD/người/năm, tăng không đáng kể sau nhiều năm phát triển ngành phần mềm. Nhân sự chuyên biệt cho thị trường Nhật là khó khăn lớn nhất vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Vì thế dù nhu cầu của Nhật hàng năm khoảng 10 tỉ USD nhưng Việt Nam chỉ chiếm thị phần nhỏ khoảng 4%. Theo ông Chu Tiến Dũng, phó chủ tịch hiệp hội Phần mềm và dịch vụ CNTT Việt Nam (VINASA), Nhật là thị trường xuất khẩu phần mềm lớn với mức tăng trưởng 30%/năm, chiếm khoảng 35% doanh thu. Trong những năm tới nhu cầu của Nhật tăng nhanh, tuy nhiên Việt Nam không dễ đáp ứng do các đòi hỏi cao về kỹ thuật và ngôn ngữ nếu không có kế hoạch dài hạn.
Cần thay đổi mô hình đơn lẻ
Nissan Techno Vietnam, công ty chuyên thiết kế phần mềm phục vụ sản xuất ôtô của tập đoàn mẹ Nissan tại Nhật, là doanh nghiệp có số nhân sự hàng đầu Việt Nam hiện nay với khoảng 2.000 người. Tổng giám đốc Kei Hirata cho biết, Nissan cần nhân viên có trình độ IT lẫn nghiệp vụ và ngoại ngữ. Năm 2001 bắt đầu tuyển người sang Nhật đào tạo chuyên ngành ôtô và tiếng Nhật để thành lập Nissan Techno Vietnam năm 2003. Hiện nay tuổi trung bình của nhân viên tại đây là 26 và 90% có dưới sáu năm kinh nghiệm.
Do đặc thù ngành, họ phải học lái ôtô, qua các lớp đào tạo nhân cách để tuân thủ các hành động cơ bản của ngành xe hơi. Trung bình mỗi người qua tám tháng học tiếng Nhật theo chương trình ba tháng một hoặc hai tuần/tháng. Song song đó là tiếng Anh. Nissan Techno hiện có 1.075 nhân viên đạt cấp độ 1 – 4 về tiếng Nhật thì cũng đó 309 người đạt chứng chỉ TOEIC từ 400 – 750 điểm. “Từ năm nay chúng tôi mới bắt đầu đào tạo chuyên sâu theo chuẩn kỹ sư Nhật. Đây là một quá trình khó khăn vì thế phải có các kế hoạch dài hạn, liên tục và kỹ lưỡng”, ông Kei Hirata nói.
Nhưng không nhiều doanh nghiệp thành công như Nissan. Ông Nguyễn Đoàn Hùng, chủ tịch VJC, tính toán tỷ lệ dự án gia công cho thị trường Nhật trong 20 công ty hàng đầu Việt Nam vẫn còn thấp. Thị phần gia công với Nhật hiện 4%, điều kiện cần để tăng lên 10% trong mười năm tới vẫn là nhân lực có ngoại ngữ và chuyên môn. “Thách thức chung của hai bên là thiếu kỹ sư IT giỏi tiếng Nhật, trong khi đó mức lương tăng lên và đầu tư cho IT đã thấp đi”, ông Hùng nhận định.
Một số trường đại học đã đào tạo tiếng Nhật cho sinh viên hai năm đầu và nhiều chương trình do doanh nghiệp thực hiện. Sự hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam cho đào tạo và cơ sở hạ tầng đã có nhưng chưa đầy đủ, trong khi các doanh nghiệp lo lắng thị trường Nhật có thể thay đổi không thuận lợi. “Để tránh sự phát triển đơn lẻ, chúng tôi kiến nghị Chính phủ Việt Nam thực hiện đào tạo Nhật ngữ chuyên môn từ năm đầu đại học và Chính phủ Nhật hỗ trợ mạnh mẽ các chương trình tu nghiệp tại Nhật”, ông Hùng nói.
Theo ông Hironori Hashimoto, tổng giám đốc PanasoTech, Việt Nam có sơ đồ dân số đẹp, đặc biệt đối với ngành công nghệ. Để phát triển, doanh nghiệp Nhật phải tìm cách giải quyết vấn đề giao tiếp, sử dụng tiếng Anh thay thế tạm thời và đào tạo tiếng Nhật song song. “Cách thành công là đào tạo theo kế hoạch dài hạn và chuyển giao kinh nghiệm quản lý. Năng lực thị trường và sức mua mới ở giai đoạn bắt đầu là lợi thế cho các doanh nghiệp phát triển tại Việt Nam”, ông Hironori Hashimoto nói.
Về góc độ thị trường, tổng giám đốc Makoto Iwafuji (USOL Vietnam) chia sẻ: 5 – 10 năm tới thách thức lớn cho các hệ thống thông tin là thị trường thay đổi quá nhanh. Các công ty phải triển khai hệ thống công nghệ trên cơ sở phân tích dữ liệu khách hàng thay cho cách truyền thống. Các mô hình offshore cần chú trọng đến xu hướng này để chuẩn bị nhân sự, ngoài kiến thức kỹ thuật đòi hỏi kiến thức chuyên môn của khách hàng, kỹ năng IT đi liền với khả năng kinh doanh. Nếu không sẽ lạc hậu với nhu cầu của khách hàng và sự biến đổi của công nghệ.
Ông Ngô Văn Toàn, phó tổng giám đốc GSC – một doanh nghiệp có kinh nghiệm gia công cho Nhật, cho rằng dù xu hướng của doanh nghiệp Nhật là tìm kiếm đối tác thay thế hoặc bổ sung cho thị trường Trung Quốc, nhưng khó khăn nhất là thiếu lực lượng kỹ sư cầu nối giỏi tiếng Nhật để phát triển các nhóm làm việc hai bên. Mặt khác, xu hướng của doanh nghiệp Nhật chọn Việt Nam vì chi phí thấp, về lâu dài sẽ không còn là lợi thế khi mà chi phí thị trường trong nước ngày càng tăng cao.
Tuyết Ân
Xem thêm các bài viết liên quan: tư vấn Du học singapore,Du học mỹ uy tín nhất HCM
Nguồn: sgtt.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét